I have heard that:
On one occasion the Blessed One was staying among the Sakyans at Kapilavatthu in the Banyan Park. Now at that time a new reception hall 1 had just been built by the Kapilavatthu Sakyans, and it had not yet been dwelled in by any contemplative, priest, or anyone at all in human form. So the Kapilavatthu Sakyans went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down, sat to one side. As they were sitting there they said to him:
-"Lord, a new reception hall has just been built by the Kapilavatthu Sakyans, and it has not yet been dwelled in by any contemplative, priest, or anyone at all in human form. May the Blessed One be the first to use it. When the Blessed One has used it first, the Kapilavatthu Sakyans will use it afterwards. That will be for their long-term welfare & happiness."




Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn sống giữa các Sakka, (Thích-ca), thành Kapilavatthu, tại tinh xá Nigrodha. Lúc bấy giờ, một ngôi giảng đường mới được dựng lên không bao lâu cho các Sakya ở Kapilavatthu, và chưa được một Sa-môn, Bà-la-môn, hay một người nào đến ở. Rồi các Sakya ở Kapilavatthu đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Các Sakya ở Kapilavatthu đang ngồi một bên, bạch Thế Tôn:
– Ở đây, bạch Thế Tôn, có một ngôi giảng đường mới, được dựng lên không bao lâu cho các Sakya ở Kapilavatthu, và chưa được một Sa-môn, Bà-la-môn, hay một người nào đến ở. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hăy dùng nhà giảng đường ấy trước tiên, rồi các Sakya ở Kapilavatthu sẽ dùng sau, và như vậy các vị Sakya ở Kapilavatthu sẽ hưởng hạnh phúc, an lạc lâu dài.

 

The Blessed One acquiesced with silence. Sensing his acquiescence, the Kapilavatthu Sakyans got up from their seats, bowed down to him, circumambulated him, and then went to the new reception hall. On arrival, they spread it all over with felt rugs, arranged seats, set out a water vessel, and raised an oil lamp. Then they went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down, stood to one side. As they were standing there they said to him:
"Lord, the reception hall has been covered all over with felt rugs, seats have been arranged, a water vessel has been set out, and an oil lamp raised. It is now time for the Blessed One to do as he sees fit."



Thế Tôn im lặng nhận lời. Các vị Sakya ở Kapilavatthu, sau khi được biết Thế Tôn đă nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi đi đến ngôi giảng đường, sau khi đến, cho lấy nệm trải khắp giảng đường, sắp đặt chỗ ngồi, đặt ghè nước, treo đèn dầu, rồi đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Các Sakya ở Kapilavatthu đứng một bên, bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, ngôi giảng đường đă được trải nệm tất cả, các chỗ ngồi đă được sắp đặt, ghè nước đă được đặt sẵn, đèn dầu đă được treo lên. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hăy làm những ǵ Thế Tôn nghĩ là hợp thời.

 

So the Blessed One, putting on his robe and taking up his bowl & outer robe, went together with a community of monks to the reception hall. On arrival he washed his feet, entered the hall, and sat with his back to the central post, facing east. The community of monks washed their feet, entered the hall, and sat with their backs to the western wall, facing east, ranged around the Blessed One. The Kapilavatthu Sakyans washed their feet, entered the hall, and sat with their backs to the eastern wall, facing west, ranged around the Blessed One. Then the Blessed One — having spent most of the night instructing, urging, rousing, & encouraging the Kapilavatthu Sakyans with a Dhamma talk — said to Ven. Ananda, "Ananda, speak to the Kapilavatthu Sakyans about the person who follows the practice for one in training. 2 My back aches. I will rest it."



Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát, cùng với chúng Tỷ-kheo Tăng đi đến giảng đường, sau khi đến Ngài rửa chân, bước vào ngôi giảng đường và ngồi xuống, dựa vào cột ở giữa, mặt hướng phía Đông. Chúng Tỷ-kheo Tăng, sau khi rửa chân, bước vào giảng đường, ngồi dựa vào bức tường phía Tây, mặt hướng về phía Đông, với Thế Tôn ngồi trước họ. Các Sakya ở thành Kapilavatthu cũng rửa chân, bước vào ngôi giảng đường, rồi ngồi xuống dựa vào bức tường phía Đông, mặt hướng phía Tây, với Thế Tôn ngồi trước mặt. Rồi Thế Tôn cho đến quá nửa đêm, thuyết pháp, khai thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Sakya ở Kapilavatthu, rồi nói với Tôn giả Ananda:
– Này Ananda, hăy giảng hữu học đạo cho các Sakya ở Kapilavatthu, Ta bị đau lưng. Ta sẽ nằm nghỉ.

 

Ven. Ananda responded:
- "As you say, lord."



– Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn.

 

Then the Blessed One, having arranged his outer robe folded in four, lay down on his right side in the lion's sleeping posture, with one foot on top of the other, mindful & alert, having made a mental note to get up.



Rồi Thế Tôn trải đại y gấp bốn lại, nằm xuống phía bên hông bên hữu như dáng nằm con sư tử chân gác trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh giác, hướng niệm đến lúc ngồi dậy lại.

 

Then Ven. Ananda addressed Mahanama the Sakyan3: "There is the case, Mahanama, where a disciple of the noble ones is consummate in virtue, guards the doors to his sense faculties, knows moderation in eating, is devoted to wakefulness, is endowed with seven qualities, and obtains at will — without trouble or difficulty — the four jhanas that constitute heightened awareness and a pleasant abiding in the here-&-now.



Rồi Tôn giả Ananda nói với Sakya Mahanama: – Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử, thành tựu giới hạnh, hộ tŕ các căn, biết tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác, thành tựu bảy diệu pháp, hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức.

 

"And how is the disciple of the noble ones consummate in virtue? There is the case where the disciple of the noble ones is virtuous. He dwells restrained in accordance with the Patimokkha, consummate in his behavior & sphere of activity. He trains himself, having undertaken the training rules, seeing danger in the slightest faults. This is how the disciple of the noble ones is consummate in virtue.



Và này Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử thành tựu giới hạnh ? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử có giới hạnh, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lănh và tu học các học pháp. Này Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử thành tựu giới hạnh.

 

"And how does the disciple of the noble ones guard the doors to his sense faculties? There is the case where the disciple of the noble ones, on seeing a form with the eye, doesn't grasp at any theme or variations by which — if he were to dwell without restraint over the faculty of the eye — evil, unskillful qualities such as greed or distress might assail him. He practices with restraint. He guards the faculty of the eye. He achieves restraint with regard to the faculty of the eye.



Và này Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử hộ tŕ các căn ? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử, khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân ǵ v́ nhăn căn không được chế ngự, khiến tham ưu, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ tŕ nhăn căn, thực hành sự hộ tŕ nhăn căn.

 

"On hearing a sound with the ear...



Khi tai nghe tiếng...

 

"On smelling an aroma with the nose...



Khi mũi ngửi hương...

 

"On tasting a flavor with the tongue...



Khi lưỡi nếm vị...

 

"On feeling a tactile sensation with the body...



Khi thân cảm xúc...

 

"On cognizing an idea with the intellect, he doesn't grasp at any theme or variations by which — if he were to dwell without restraint over the faculty of the intellect — evil, unskillful qualities such as greed or distress might assail him. He practices with restraint. He guards the faculty of the intellect. He achieves restraint with regard to the faculty of the intellect. This is how the disciple of the noble ones guards the doors to his sense faculties.



Khi ư nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân ǵ v́ ư căn không được chế ngự, khiến tham ưu, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ tŕ ư căn, thiệt hành sự hộ tŕ ư căn. Này Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử hộ tŕ các căn.

 

"And how does the disciple of the noble ones know moderation in eating? There is the case where the disciple of the noble ones, considering it appropriately, takes his food not playfully, nor for intoxication, nor for putting on bulk, nor for beautification, but simply for the survival & continuance of this body, for ending its afflictions, for the support of the holy life, thinking, 'I will destroy old feelings [of hunger] & not create new feelings [from overeating]. Thus I will maintain myself, be blameless, & live in comfort.' This is how the disciple of the noble ones knows moderation in eating.



Và này Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử biết tiết độ trong ăn uống ? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử chơn chánh giác sát, thọ dụng món ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp ḿnh, chỉ để thân này được duy tŕ, được bảo dưỡng, khỏi bị gia hại, để chấp tŕ Phạm hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới; và ta sẽ không phạm lỗi lầm, sống được an ổn". Này Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử biết tiết độ trong sự ăn uống.

 

"And how is the disciple of the noble ones devoted to wakefulness? There is the case where a monk during the day, sitting & pacing back & forth, cleanses his mind of any qualities that would hold the mind in check. During the first watch of the night [dusk to 10 p.m.], sitting & pacing back & forth, he cleanses his mind of any qualities that would hold the mind in check. During the second watch of the night [10 p.m. to 2 a.m.], reclining on his right side, he takes up the lion's posture, one foot placed on top of the other, mindful, alert, with his mind set on getting up [either as soon as he awakens or at a particular time]. During the last watch of the night [2 a.m. to dawn], sitting & pacing back & forth, he cleanses his mind of any qualities that would hold the mind in check. This is how the monk is devoted to wakefulness.



Và này Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử chú tâm cảnh giác ? Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử ban ngày trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp, ban đêm trong canh một, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp, ban đêm trong canh giữa, vị này nằm xuống phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, chân gác trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh giác, hướng niệm đến lúc ngồi dậy lại. Ban đêm trong canh cuối, khi đă thức dậy, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp. Này Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử chú tâm cảnh giác.

 

"And how is the disciple of the noble ones endowed with seven qualities?



Và này Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử thành tựu bảy diệu pháp ?

 

"(1) There is the case where the disciple of the noble ones has conviction, is convinced of the Tathagata's Awakening: 'Indeed, the Blessed One is worthy and rightly self-awakened, consummate in clear-knowing & conduct, well-gone, an expert with regard to the world, unexcelled as a trainer for those people fit to be tamed, the Teacher of divine & human beings, awakened, blessed.'



Ở đây, này Mahanama, vị Thánh đệ tử có ḷng tin, có ḷng tin ở sự giác ngộ của Như Lai: Ngài là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

 

"(2) He feels shame at [the thought of engaging in] bodily misconduct, verbal misconduct, mental misconduct.



Vị này có ḷng tàm, tự xấu hổ v́ thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ư ác hạnh, tự xấu hổ v́ thành tựu ác, bất thiện pháp.

 

"(3) He feels concern for [the suffering that results from] bodily misconduct, verbal misconduct, mental misconduct.



Vị này có ḷng quư, tự sợ hăi v́ thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ư ác hạnh, tự sợ hăi v́ thành tựu ác, bất thiện pháp.

 

"(4) He has heard much, has retained what he has heard, has stored what he has heard. Whatever teachings are admirable in the beginning, admirable in the middle, admirable in the end, that — in their meaning & expression — proclaim the holy life that is entirely complete & pure: those he has listened to often, retained, discussed, accumulated, examined with his mind, and well-penetrated in terms of his views.



Vị này là vị đa văn, nhớ nghĩ những điều đă nghe, tích tụ những điều đă nghe. Những pháp nào, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, nói lên phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ tŕ, đọc tụng bằng lời, được ư suy tư, được chánh kiến thể nhập.

 

"(5) He keeps his persistence aroused for abandoning unskillful mental qualities and taking on skillful mental qualities. He is steadfast, solid in his effort, not shirking his duties with regard to skillful mental qualities.



Vị ấy sống tinh cần tinh tấn, trừ bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, nỗ lực, kiên tŕ, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp.

 

"(6) He is mindful, highly meticulous, remembering & able to call to mind even things that were done & said long ago.



Vị ấy có niệm, thành tựu niệm tuệ tối thắng, nhớ lại, nhớ lại nhiều lần những ǵ đă làm từ lâu, đă nói từ lâu.

 

"(7) He is discerning, endowed with discernment of arising & passing away — noble, penetrating, leading to the right ending of stress.



Vị ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, thành tựu Thánh thể nhập đưa đến chơn chánh đoạn tận khổ đau.

 

"This is how the disciple of the noble ones is endowed with seven qualities.



Này Mahanama, như vậy vị Thánh đệ tử thành tựu bảy diệu pháp.

 

"And how does the disciple of the noble ones obtain at will — without trouble or difficulty — the four jhanas that constitute heightened awareness and a pleasant abiding in the here-&-now?
-There is the case where, quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities, the disciple of the noble ones enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation.
-With the stilling of directed thought & evaluation, he enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance.
-With the fading of rapture he remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.'
-With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain.
This is how the disciple of the noble ones obtains at will — without trouble or difficulty — the four jhanas that constitute heightened awareness and a pleasant abiding in the here-&-now.



Và này, Mahanama, thế nào là vị Thánh đệ tử hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức ?
-Ở đây, này Mahanama, (vị ấy) ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.


-Diệt tầm và tứ, vị ấy chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm.

-Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, vị ấy chứng và trú Thiền thứ ba.


-Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, vị ấy chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Này Mahanama, như vậy là vị Thánh đệ tử hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức.

 

"Now, when a disciple of the noble ones is consummate in virtue in this way, guards the doors to his sense faculties in this way, knows moderation in eating in this way, is devoted to wakefulness in this way, is endowed with seven qualities in this way, and obtains at will — without trouble or difficulty — the four jhanas that constitute heightened awareness and a pleasant abiding in the here-&-now in this way, then he is called a disciple of the noble ones who follows the practice for one in training, whose eggs are unspoiled, who is capable of breaking out, capable of awakening, capable of attaining the supreme rest from the yoke. 4



Này Mahanama, khi một vị Thánh đệ tử thành tựu giới hạnh như vậy, hộ tŕ các căn như vậy, biết tiết độ trong ăn uống như vậy, chú tâm cảnh giác như vậy, đầy đủ bảy diệu pháp như vậy, hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức như vậy, này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy được gọi là đang đi trên con đường hữu học, có trứng không bị hư hoại, có khả năng phá vỡ, có khả năng giác ngộ, có khả năng chứng đạt vô thượng an ổn khỏi các ách phược.

 

"Just as if a hen had eight, ten, or twelve eggs that she covered rightly, warmed rightly, & incubated rightly: Even though this wish did not occur to her — 'O that my chicks might break through the egg shells with their spiked claws or beaks and hatch out safely!' — still it is possible that the chicks would break through the shells with their spiked claws or beaks and hatch out safely. In the same way, when a disciple of the noble ones is consummate in virtue in this way, guards the doors to his sense faculties in this way, knows moderation in eating in this way, is devoted to wakefulness in this way, is endowed with seven qualities in this way, and obtains at will — without trouble or difficulty — the four jhanas that constitute heightened awareness and a pleasant abiding in the here-&-now in this way, then he is called a disciple of the noble ones who follows the practice for one in training, whose eggs are unspoiled, who is capable of breaking out, capable of awakening, capable of attaining the supreme rest from the yoke.



Này Mahanama, ví như có tám, có mười hay có mười hai trứng gà, được gà mái khéo ấp ngồi, khéo ấp nóng, khéo ấp dưỡng; dầu cho con gà mái ấy không khởi lên ư muốn: "Mong rằng, các con gà con của ta, sau khi phá vỡ vỏ trứng với móng chân, hay với mỏ của chúng, thoát ra ngoài một cách an toàn". Những con gà con ấy, sau khi phá vỡ vỏ trứng với móng chân hay mỏ của chúng, có thể thoát ra ngoài một cách an toàn. Cũng vậy, này Mahanama khi một vị Thánh đệ tử, thành tựu giới hạnh như vậy, hộ tŕ các căn như vậy, biết tiết độ trong ăn uống như vậy, chú tâm cảnh giác như vậy, đầy đủ bảy diệu pháp như vậy, hiện tại lạc trú bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, chứng đắc không khó khăn, chứng đắc không mệt nhọc, chứng đắc không phí sức như vậy, này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy được gọi là đang đi trên con đường hữu học, có trứng không bị hư hoại, có khả năng phá vỡ, có khả năng giác ngộ, có khả năng chứng đạt vô thượng an ổn khỏi các ách phược.

 

"Now when the disciple of the noble ones has arrived at this purity of equanimity & mindfulness, he recollects his manifold past lives, i.e., one birth, two... five, ten... fifty, a hundred, a thousand, a hundred thousand, many eons of cosmic contraction, many eons of cosmic expansion, many eons of cosmic contraction & expansion: 'There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.' Thus he recollects his manifold past lives in their modes & details. This is his first breaking out, like that of the hen's chicks from their shells.



Này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy, khi chứng được vô thượng xả niệm thanh tịnh này, nhớ đến các đời sống quá khứ sai biệt, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sinh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mực như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, Vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Đây là sự phá vỡ thứ nhất của con gà con ra khỏi vỏ trứng.

 

"When the disciple of the noble ones has arrived at this purity of equanimity & mindfulness, he sees — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — beings passing away & re-appearing, and he discerns how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma: 'These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech & mind, who reviled noble ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, & mind, who did not revile noble ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.' Thus — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — he sees beings passing away & re-appearing, and he discerns how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma. This is his second breaking out, like that of the hen's chicks from their shells.



Này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy, khi chứng được vô thượng xả niệm thanh tịnh này, với thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ư, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. C̣n những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, cơi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với Thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta biết rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng. Đây là sự phá vỡ thứ hai của con gà con ra khỏi vỏ trứng.

 

"When the disciple of the noble ones has arrived at this purity of equanimity & mindfulness, he enters & remains in the fermentation-free awareness-release & discernment-release, having directly known & realized them for himself right in the here & now. 5 This is his third breaking out, like that of the hen's chicks from their shells.



Này Mahanama, vị Thánh đệ tử ấy, khi chứng được vô thượng xả niệm thanh tịnh này, với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự ḿnh ngay trong hiện tại với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Đây là sự phá vỡ thứ ba của con gà con ra khỏi vỏ trứng.

 

"Now, when the disciple of the noble ones is consummate in virtue, that is a matter of his conduct. When he guards the doors to his sense faculties... knows moderation in eating... is devoted to wakefulness... is endowed with seven qualities, that that is a matter of his conduct. When he obtains at will — without trouble or difficulty — the four jhanas that constitute heightened awareness and a pleasant abiding in the here-&-now, that that is a matter of his conduct.



Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào thành tựu giới hạnh, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào hộ tŕ các căn, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào có tiết độ trong ăn uống, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào chú tâm cảnh giác, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy. Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào đầy đủ bảy diệu pháp, như vậy thuộc về hạnh đức của vị ấy.

 

"When he recollects his manifold past lives. I recollected my manifold past lives, i.e., one birth, two birth, ... five birth, ten birth fifty, ..., a hundred birth, a thousand birth, a hundred thousand birth, many eons of cosmic contraction, many eons of cosmic expansion, many eons of cosmic contraction & expansion: 'There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.' Thus I remembered my manifold past lives in their modes & details, that is a matter of his clear-knowing.



Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào, nhớ đến các đời sống quá khứ sai biệt, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sinh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mực như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết như vậy thuộc về trí đức của vị ấy.

 

He sees — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — beings passing away & re-appearing, and he discerned how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma: 'These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech & mind, who reviled the Noble Ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, & mind, who did not revile the Noble Ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.' Thus — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — He sees beings passing away & re-appearing, and I discerned how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma, that is a matter of his clear-knowing.



Vị ấy với Thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ư, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. C̣n những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, cơi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với Thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ, như vậy thuộc về trí đức của vị ấy.

 

When he enters & remains in the fermentation-free awareness-release & discernment-release, having directly known & realized them for himself right in the here & now, that is a matter of his clear-knowing.



Này Mahanama, vị Thánh đệ tử nào với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự ḿnh ngay trong hiện tại với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, như vậy thuộc về trí đức của vị ấy.

 

"This, Mahanama, is called a disciple of the noble ones who is consummate in clear-knowing, consummate in conduct, consummate in clear-knowing & conduct. And by the Brahma Sanankumara this verse was said:



Như vậy, này Mahanama, vị Thánh đệ tử được gọi là minh cụ túc, hạnh cụ túc, minh hạnh cụ túc. Này Mahanama, Phạm thiên Sanankumara (Thường Đồng H́nh Phạm thiên) có nói bài kệ như sau:

 

'The noble warrior is the best among people
	when judging by clan.
But a person consummate
in clear-knowing & conduct,
	is the best of beings
	human & divine.'



 
Chúng sanh tin giai cấp 
Vương tộc là tối thượng. 
Vị minh hạnh cụ túc, 
Tối thắng ở Nhơn Thiên. 
 

 

"This verse was well-sung by the Brahma Sanankumara, not ill-sung; well-said, not ill-said; connected with the goal, not unconnected with the goal. It was endorsed by the Blessed One."



Này Mahanama, bài kệ ấy được Phạm thiên Sanankumara khéo hát, không phải vụng hát, khéo nói, không phải vụng nói, có ư nghĩa, không phải vô nghĩa, và được Thế Tôn ấn khả.

 

Then the Blessed One got up and said to Ven. Ananda, "Good, good, Ananda. What you have said to the Kapilavatthu Sakyans about the person who follows the practice for one in training is good."



Rồi Thế Tôn ngồi dậy, nói với Tôn giả Ananda:
– Lành thay, lành thay Ananda ! Thật lành thay, này Ananda, người đă giảng hữu học đạo cho các Sakka (Thích tử) ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ).

 

That is what Ven. Ananda said, and the Teacher approved. Gratified, the Kapilavatthu Sakyans delighted in Ven. Ananda's words.



Tôn giả Ananda thuyết giảng như vậy, bậc Đạo Sư ấn khả. Các vị Sakka ở Kapilavatthu hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Ananda dạy.

 

Notes

1. According to the Commentary, this was a hall built to receive royal guests, together with their entourages.

2. This phrase — "the person who follows the practice for one in higher training" — translates the Pali phrase, sekho patipado. Although this phrase may be taken as two separate words, the Commentary treats it as a compound and translates it as "one who follows the sekha-patipada." Grammatically, as a compound, the form is strange, with the first member maintaining its case ending, instead of being reduced to a stem form connected with the following member of the compound, as in a normal compound. However, this form has been found in other parts of the Canon as well, and modern grammarians have coined a term to describe it: a syntactical compound. I have thus followed the Commentary in my translation.

"One in training" is a person who has attained at least stream-entry, but not yet arahantship.

3. The chief of the Kapilavatthu Sakyans. See AN 3.73; AN 11.12; and AN 11.13.

4. The yoke is fourfold: the yoke of sensuality, the yoke of becoming, the yoke of views, & the yoke of ignorance. See AN 4.10.

5. This completes the training, and so one becomes an asekha: one no longer in training. In other words, one is an arahant.

See also: AN 4.37; AN 7.6

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |